Nguy cơ dòng FDI chất lượng thấp chảy vào Việt Nam
Báo cáo vừa được công bố bởi nhóm chuyên gia của CIEM cho thấy, trong giai đoạn 2010-2019, trong các quốc gia thuộc RCEP thì Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN (chủ yếu là Singapore), và Trung Quốc là bốn đối tác đầu tư chính vào Việt Nam. Vốn đầu tư từ các quốc gia phát triển như Úc và New Zealand còn rất khiêm tốn.
Tính chung cho cả giai đoạn 2010-2019, lượng vốn FDI đăng ký từ khối RCEP chiếm tới 65,7% tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam.
Mặc dù thu hút dòng vốn FDI lớn từ các nước trong RCEP, tuy nhiên, thời gian qua, không ít dự án từ một số nước ở khu vực RCEP có gây ra lo ngại về chất lượng đầu tư như về phương diện môi trường, xã hội…
Chẳng hạn như dòng vốn FDI từ Trung Quốc, đánh giá khách quan thì FDI của Trung Quốc cũng góp phần bổ sung nhu cầu vốn cho đầu tư và phát triển của Việt Nam, về xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo năng lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. FDI của Trung Quốc đã và đang chuyển dịch từ đầu tư tập trung vào khai khoáng sang các ngành chế biến chế tạo.
Dù vậy, dòng vốn FDI từ Trung Quốc còn một số hạn chế, nổi lên là việc sử dụng các công nghệ đã cũ, gây rủi ro ô nhiễm môi trường. Có quan ngại cho rằng các dự án FDI của nhà đầu tư Trung Quốc dường như đã làm kéo dài mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam theo chiều rộng, tập trung vào khai thác tài nguyên, gia công lắp ráp, không khuyến khích sản xuất nội địa, thậm chí đẩy doanh nghiệp Việt Nam xuống vị trí thấp hơn trong chuỗi giá trị.
“Nếu không quyết liệt sàng lọc và chỉnh đốn, Việt Nam có nguy cơ sa lầy trong các dự án FDI sản xuất các sản phẩm thô, sơ chế đơn giản với giá trị gia tăng thấp, với quy mô nhỏ, công nghệ giản đơn, năng lực cạnh tranh yếu, và nhiều rủi ro”, báo cáo của CIEM bày tỏ.
Cùng với đà phát triển kinh tế, Trung Quốc cũng có những bước đi trong việc cải thiện các quy định, tiêu chuẩn về môi trường. Điều này dẫn đến việc các nhà máy công nghệ thấp hơn, ít thân thiện với môi trường hơn có xu hướng dịch chuyển dần sang các nước xung quanh, và không loại trừ những cân nhắc chuyển sang Việt Nam. Rủi ro này lớn hơn trong bối cảnh thương mại Mỹ – Trung.
Theo các chuyên gia của CIEM, vấn đề hàng hóa Trung Quốc lẩn tránh thuế, gian lận xuất xứ trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ – Trung Quốc đã được chính phía Mỹ nêu trực diện hơn trong giai đoạn 2018-2020, và không loại trừ khả năng sẽ còn tiếp tục được theo dõi chặt chẽ hơn trong giai đoạn hậu 2020. Bản thân Việt Nam và các nước RCEP (đặc biệt là Trung Quốc) cũng gặp không ít các vụ kiện phòng vệ thương mại, chẳng hạn như chống bán phá giá, chống trợ cấp,… Những vấn đề này sẽ phức tạp hơn nếu được “núp” sau các dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Tác động kèm theo là việc gia tăng bất định đối với cán cân thương mại tổng thể của Việt Nam, đặc biệt là khi biến động từ các thị trường ngoài RCEP có thể ảnh hưởng tới khả năng Việt Nam kiếm thặng dư để bù đắp thâm hụt thương mại với các thị trường trong RCEP. Khi ấy, mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam có thể bị ảnh hưởng đáng kể, ít nhất trên các phương diện như: dư địa để điều hành chính sách kinh tế vĩ mô; và dễ chịu tác động bất lợi từ thay đổi chính sách xuất nhập khẩu đột ngột – không trái cam kết RCEP – của một thị trường đủ lớn trong RCEP.
Trong bối cảnh ấy, năm 2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 là một bước đi quan trọng. Nghị quyết đã chỉ ra những nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nghiên cứu, xây dựng các quy định khắc phục tình trạng “vốn mỏng”, chuyển giá, đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng”.
Dù vậy, không ít thảo luận đã cho thấy việc thực thi nhiệm vụ này thực sự khó khăn về mặt kỹ thuật. Việc sàng lọc chất lượng các dự án FDI là chủ trương đúng nhưng thực thi không dễ.
Theo Kiều Linh
Theo VnEconomy